Recent Posts
Thứ Năm, 17 tháng 12, 2009
Thứ Sáu, 4 tháng 12, 2009
Thứ Tư, 18 tháng 11, 2009
Hội hè miên man & Nhìn những mùa thu đi
Thứ Hai, 9 tháng 11, 2009
A Quiz for November Nine

Chủ Nhật, 8 tháng 11, 2009
New World In the Morning
Thứ Tư, 4 tháng 11, 2009
November
Thứ Bảy, 31 tháng 10, 2009
Nhìn những mùa thu đi
em nghe sầu lên trong nắng
và lá rụng ngoài song
nghe tên mình vào quên lãng
nghe tháng ngày chết trong thu vàng
Nhìn những lần thu đi
tay trơn buồn ôm nuối tiếc
nghe gió lạnh về đêm
hai mươi sầu dâng mắt biếc
thương cho người rồi lạnh lùng riêng
Gió heo may đã về
chiều tím loang vỉa hè
và gió hôn tóc thề
rồi mùa thu bay đi
trong nắng vàng chiều nay
anh nghe buồn mình trên ấy
chiều cuối trời nhiều mây
đơn côi bàn tay quên lối
đưa em về nắng vương nhè nhẹ
Đã mấy lần thu sang
công viên chiều qua rất ngắn
chuyện chúng mình ngày xưa
anh ghi bằng nhiều thu vắng
đến thu này thì mộng nhạt phai
Thứ Sáu, 30 tháng 10, 2009
Mojito
Sinh thời, đại văn hào Ernest Hemingway rất yêu thích Mojito, có lẽ chỉ sau mỗi món cocktail Daiquiri. Ông đã từng đến tận quán bar La Bodeguita del Medio ở Havana để được thưởng thức Mojito tại chính nơi nó đã sinh ra.
Nếu bạn được mời đến dự một bữa tiệc đêm ở đất nước Cuba, hãy chuẩn bị dạ dày để “chứa” Mojito bởi đây là một thứ đồ uống truyền thống và rất phổ biến của người dân nơi đây.
Một ly Mojito mát lạnh là sự kết hợp hoàn hảo giữa vị chua của chanh tươi, vị ngọt của đường, mùi thơm hăng hắc của lá bạc hà và vị nồng nàn của Rhum. Đừng quên thêm đá đập vụn.
Có rất nhiều cách làm khác nhau cho đồ uống mang tên Mojito, tuy nhiên bạn cần nắm rõ công thức cơ bản như sau: 1 thìa đường hạt; 60ml nước chanh tươi; 4 lá bạc hà; 60ml Light Rhum; 60ml Soda.
Cách làm: Cho lá bạc hà vào ly, thêm nước chanh và đường hạt. Dùng mặt sau của thìa nghiền sơ, trộn cho hỗn hợp hoà tan và thơm mùi bạc hà. Thêm đá đập vụn và rượu rhum, khuấy đều. Đổ tràn nước soda lên trên. Trang trí với một nhánh ngọn bạc hà và những khoanh chanh tươi thái mỏng.

Thứ Tư, 28 tháng 10, 2009
Tuần lễ đọc
Thứ Hai, 26 tháng 10, 2009
Một buổi trưa, buồn ngủ
Lịch dự đám cưới dày đặc.
Đi ăn cưới buổi trưa là một cực hình. Mất giấc ngủ trưa thường lệ. Thêm một chút bia. Tiệc xong, ước mơ duy nhất chỉ là một chỗ có thể chợp mắt được, dù chỉ là 5 phút. Mà không thể, vì đã đến giờ làm.
Đang là buổi trưa, nhưng chợt thèm đến nao lòng nghe một bài hát: Đêm Thấy Ta Là Thác Đổ.
Chỉ vì trong đó có một câu: "Thành phố đã đi ngủ trưa".
Lại ước, mình được sống trong thành phố đó, một thành phố Lạ không biết là thành phố nào. Có lẽ, nó chỉ có, trong những giấc mơ trưa.
Một đêm bước chân về gác nhỏ
Chợt nhớ đóa hoa Tường Vi
Bàn tay ngắt hoa từ phố nọ
Giờ đây đã quên vườn xưa
Một hôm bước qua thành phố lạ
Thành phố đã đi ngủ trưa
Đời ta có khi tựa lá cỏ
Ngồi hát ca rất tự do
Nhiều khi bỗng như trẻ nhớ nhà
Từ những phố xưa tôi về
Ngày xuân bước chân người rất nhẹ
Mùa xuân đã qua bao giờ
Nhiều đêm thấy ta là thác đổ
Tỉnh ra có khi còn nghe
Một hôm bước chân về giữa chợ
Chợt thấy vui như trẻ thơ
Đời ta có khi là đóm lửa
Một hôm nhóm trong vườn khuya
Vườn khuya đóa hoa nào mới nở
Đời tôi có ai vừa qua
Nhiều khi thấy trăm nghìn nấm mộ
Tôi nghĩ quanh đây hồ như
Đời ta hết mang điều mới lạ
Tôi đã sống rất ơ hờ
Lòng tôi có đôi lần khép cửa
Rồi bên vết thương tôi quì
Vì em đã mang lời khấn nhỏ
Bỏ tôi đứng bên đời kia.
Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2009
Viết ở Givral, bên cửa sổ (*)
Tôi không nhớ mình bắt đầu được biết cái tên Givral từ khi nào, nhưng chắc chắn là phải lâu lắm rồi, kể từ khi tôi được học những bài lịch sử đầu tiên về Sài Gòn và chiến tranh giải phóng miền Nam.
Những ấn tượng về Givral càng trở lên sâu đậm hơn khi tôi bắt đầu được đọc những dòng đầu tiên về Phạm Xuân Ẩn – vị tướng tình báo lừng danh mà tên tuổi của ông chỉ được nhiều người biết đến vào những năm cuối đời, khi ông đã sắp từ giã cõi đời sau những cơn bạo bệnh. Một người, như nhà văn, nhà báo Nguyễn Thị Ngọc Hải đã viết, là “tên người như cuộc đời”. Ông đã “Ẩn” mình suốt gần như cả cuộc đời, nhưng một trong những nơi chốn mà ông hiện diện thường xuyên nhất, gần như là trong suốt sự nghiệp lẫy lừng của ông, là tiệm cà phê Givral này.
Say mê con người ông, tôi đâm ra say mê Givral, mặc dầu chưa từng đặt chân đến. Cộng với cái thú lang thang cà phê cà pháo, tôi đã đặt Givral đứng số 1 trong top ten các tiệm cà phê cần phải đến trong đời.
Và đây, trong một buổi sáng Sài Gòn không nắng không mưa, không nóng không lạnh, tôi đã hiện diện ở nơi này, và ngập chìm trong không khí của Givral – một trong những tiệm cà phê nổi tiếng và lâu đời nhất ở vùng đất phương Nam này.
Trước khi đến, tôi đã định bụng dành cả buổi sáng ngồi ở Givral để kết thúc nốt một vài việc còn dang dở. Tôi ngồi đó với chiếc máy tính quen thuộc, wi-fi đã sẵn sàng, nhưng tôi không thể tập trung mà làm việc được. Cà phê rất ngon (nhược điểm duy nhất là hơi nhiều đá), Lucky Strike thì rất thơm, và nhạc thì rất hay. Còn tôi thì bắt đầu bỏ ý định làm việc vào sáng nay.
Quán không lớn nên không có nhiều lựa chọn, tôi đành ngồi một chỗ ngay lối vào. Khung cửa sổ lớn như một bức tranh mở ra trung tâm thành phố. Ngoài kia là Nhà hát Lớn với hai hàng cây sao thẳng tắp, cao vút. Kế bên là Caravelle Hotel cũng nổi tiếng một thời. Và, một quảng trường tấp nập người xe. Nếu như không có cây cột điện nơi góc đường, kể như tôi đã có một bức tranh hoàn hảo qua khung cửa sổ.
Ngồi cà phê bên khung cửa sổ lớn mở ra một không gian đẹp luôn là một trải nghiệm tuyệt vời. Chỉ tiếc là không chia sẻ được trải nghiệm đó với một người cũng rất đam mê cà phê là vợ tôi, vì tôi chỉ đang ngồi đó, một mình.
Tôi đã gọi đến ly nâu đá thứ hai, một ngoại lệ chưa từng có trong cả đời uống cà phê của mình.
Và bắt đầu nghĩ, sẽ là một mất mát lớn cho đất Sài Gòn, nếu một ngày nào đó, vì một lý do nào đó, Givral không còn tồn tại nữa.
Bạn bè thường hỏi tại sao tôi lại hút Lucky Strike. Mỗi lần như vậy tôi thường chỉ cười và chống chế bằng câu trả lời quen thuộc: “Just because, I need some lucky”. -:). Nhưng sự thực không phải như vậy. Ngoài việc Lucky là loại tôi thấy hợp nhất, trong số rất nhiều loại thuốc lá đã từng thử qua, còn có một lý do quan trọng khác: đó chính là loại thuốc mà ông Ẩn đã hút suốt cả cuộc đời, với cách hút, cũng do người Mỹ dạy. Đối với một người làm nghề như ông, Lucky quả là cần thiết, xét theo cả hai nghĩa đen và bóng của từ này. (**) Do vậy, hẳn các bạn phải biết tôi đã thoả mãn thế nào khi được ngồi đây, với ly nâu đá thứ hai đã gần cạn, và đã là điếu Lucky Strike thứ ba.
Để kết thúc một buổi sáng đáng nhớ ở Givral, tôi muốn các bạn biết thêm rằng, tôi thật là “ghen tị” với anh Quốc Bảo – một người mà tôi rất mến mộ - vì anh có thâm niên ngồi Givral tới mấy chục năm ròng. Cái chuỗi mấy chục năm đó đã được bắt đầu, như anh đã có lần hé lộ, từ lúc anh mới... sáu tuổi. Không biết ở đất Sài Gòn này, còn có người nào khác may mắn như anh không?
Và tôi ước, một ngày nào đó, bên cửa sổ Givral này, sẽ có hai người ngồi cà phê ngắm quảng trường Nhà hát. Ngồi đó, lặng yên, mà không cần nói câu nào./.
(*) Viết ở Givral, nhưng post ở Hi-End, vì wi-fi ở Givral hơi tệ. Một điểm trừ cho Givral,-:)
(**) Trong Lời nói đầu của cuốn "Điệp viên hoàn hảo" mà Larry Berman viết về ông Ẩn, có những dòng như thế này: "Ông Ẩn là một người cực kỳ mê tín. Từ năm 1955 ông đã bắt đầu hút loại thuốc lá Lucky Strike. Khi đó, một người bạn Mỹ của ông đã dạy ông cách nuốt khói, đồng thời đảm bảo với ông rằng Lucky Strike sẽ mang đến sẽ mang đến cho ông nhiều may mắn (***). Phạm Xuân Ẩn nói: "Tôi đã hút thuốc lá 52 năm rồi. Giờ đây tôi đang phải trả giá cho điều đó. Hút thuốc lá liên tục trong từng ấy năm mà tôi chỉ bị bệnh phổi trong có 3 năm là thắng lợi chứ". Phạm Xuân Ẩn ngồi Givral nhiều đến nỗi ông còn được gọi là Tướng Givral (General Givral).
(***) Lucky Strike đã từng được quảng cáo như thế này: Be Happy, Go Lucky!
Thứ Tư, 21 tháng 10, 2009
Nói nốt chuyện 20/10
Hôm qua là 20/10, một ngày không như mọi ngày, vì đó là ngày của Phụ nữ Việt Nam. Đương nhiên, đó cũng là ngày của vợ mình.
Nhưng mình vẫn về nhà muộn như mọi ngày.
Và cũng vẫn về người không như mọi ngày: Không một lời chúc, không một bó hoa, không một gói quà.
Trong một cuộc vui mà vì nó mình về nhà muộn, mình có nói với một đồng nghiệp thế này: Khi chưa lấy nhau, mỗi khi ngày này đến, có khi phải nghĩ trước cả tháng xem sẽ nói câu gì, sẽ mua hoa gì và sẽ tặng quà gì. Khi lấy nhau rồi thì lại lắm lý do thế: công việc bộn bề thế, bận rộn thế, chẳng hở lúc nào mà lời với lẽ, hoa với hoét, và quà với chả cáp.
Sao lại thế nhỉ?
Về nhà thấy vợ nhắc hôm nay nghe Woman hay quá. Ừ đúng. Woman & John Lennon thì hay quá rồi còn gì. Lennon mà lại.
Nhưng hôm nay đọc blog của vợ mới chợt giật mình. Ừ đúng. Những lời đó, lẽ ra, phải do mình thì thầm mới phải, trong khi những lời đó mình đã thuộc nằm lòng, bài “tủ”, nhạc sĩ “tủ”, vậy mà cũng không biết đường mà nói, lại phải để vợ “tự tặng”.
Đành tự an ủi vì dù sao cũng có “a little child inside a man”. Lennon đã nói vậy rồi, phải không?
Dẫu muộn còn hơn không, vợ đã mượn Lennon thì mình đành mượn tạm Nguyễn Duy mà nói vậy.
#1. Vợ ơi
Khi trong túi có mấy đồng ngọ nguậy
Ta chạy rông như gì nhỉ - quên đời
Lúc xơ xác bờm xơm từng sợi tóc
Đói lả mò về
Cơm đâu
Vợ ơi…
Và tao tác bạn bè cơn hoạn nạn
Đòn du côn tóe máu tâm hồn
Và tung tóe cả bướm vàng bướm trắng
Móc họng mửa ra cầu vồng bảy sắc
Vợ dìu ta
Từng bậc
Thang mòn
Đêm huyền ảo một kinh kỳ se lạnh
Một mình ta cô quạnh giữa muôn người
Mặt sông lạ gợn nếp nhăn đuôi mắt
Bủn rủn buồn
Ta thầm kêu
Vợ ơi…
#2:
ứa nước mắt mà yêu nhau trọn vẹn
khấp khểnh đường dài thập thễnh bon chen
lắm lúc chữ nghĩa vô nghĩa tuốt
bàn tay bé con phủi bụi ưu phiền
trời cho sống ta cũng già em ạ
con thương cha không bằng bà thương ông
tình như rượu chôn lâu đằm lịm lại
cuối đời đem ra nhấm mới mềm lòng…
* * *
Mới đó mà đã sắp hết tháng Mười. Hôm nay trong lúc ngồi chờ bay, chợt giật mình nhớ ra, đã quên mất một ngày – một ngày tháng Mười. Ngày hôm đó và cả vài ngày trước và sau đó, mình làm cái quái gì và nghĩ cái quái gì nhỉ?
Thứ Tư, 14 tháng 10, 2009
Nobel Kinh tế 2009 (tiếp)
Thứ Ba, 13 tháng 10, 2009
Vụn vặt cho một tuần không blog
Thứ Tư, 7 tháng 10, 2009
Công việc, sở thích & Nobel Vật lý 2009
Thứ Hai, 5 tháng 10, 2009
Tư duy Kinh tế Việt Nam 1975-1989
Thứ Bảy, 3 tháng 10, 2009
Rẽ ngang
Thứ Năm, 1 tháng 10, 2009
Vài dòng vụn
Thứ Ba, 29 tháng 9, 2009
Thank you for the music
Thứ Tư, 23 tháng 9, 2009
What The Fuck Is Social Media
Thứ Ba, 22 tháng 9, 2009
Nếu có thể gọi tên một giấc mơ
Cách đây không lâu, giới mê xe Hà Nội được một phen “lác mắt” khi thấy một chiếc Vespa Ape chạy trên đường. Người cầm lái và cũng là chủ nhân của chiếc xe lạ mắt đó, không ai khác chính là anh Hiếu “Vespa” – một người “khét tiếng” trong giới chơi xe ở Việt Nam.
Chiếc xe làm dấy lên một cơn thèm khát mãnh liệt với tất cả những ai đam mê xe cổ. Nó là một cơn thèm mãnh liệt, một cơn khát không bao giờ được thoả mãn, vì đó là chiếc Ape duy nhất tại Việt Nam – được sản xuất từ năm 1956. Và hiện tại thì chính phủ Việt Nam không cho phép nhập khẩu xe cũ. Cho nên, về cơ bản, nếu có thích thì chúng ta cũng chỉ “kính nhi viễn chi” với dớt dãi lòng thòng mà thôi.
Tuy nhiên gần đây Piaggio đã mở ra một hy vọng mới: Vespa APE Calessino.
Trong suốt quá trình tồn tại và phát triển, hình ảnh những chiếc xe ba bánh từng gắn liền với cuộc sống của những người dân lao động. Giờ đây, Piaggio Vespa APE Calessino chính thức xuất hiện với một vị thế của một huyền thoại và vị trí của một chiếc xe ba bánh mui trần tuyệt đẹp và đậm chất lãng mạn.
Không còn tồn tại với "kiếp lao động" như bậc tiền bối của mình, Piaggio Vespa APE Calessino là phiên bản đặc biệt do Piaggio Italia sản xuất và được bán tại Vương quốc Anh thông qua Perodua, công ty chuyên cung cấp những chiếc xe máy ba bánh của Piaggio.
Chỉ với 999 chiếc được sản xuất, Piaggio Vespa APE Calessino sở hữu vẻ đẹp của một chiếc xe ba bánh mui trần lịch lãm và thanh thoát. "Chất chơi" toát ra từ những chi tiết của chiếc xe như bộ ba lốp mặt bên trắng muốt. Cụm mui và cửa xe bằng vải mềm căng trên khung Inox bóng loáng và chắc khỏe. Phía đuôi xe, đẳng cấp của Piaggio Vespa APE Calessino được thể hiện qua những gờ chìm được ốp gỗ. Đặc biệt phía cuối đuôi xe đính tem với dòng chữ Ape Calessino phiên bản đặc biệt kèm theo số series xe sản xuất.

Piaggio Vespa APE Calessino có khả năng chở tới 3 hành khách và một người lái nhờ cụm ghế sau có kích thước rộng. Tính an toàn được thể hiện nhờ có dây đai an toàn như trên ô tô. Phía trên cụm cabin cho người lái là một bảng táp lô rộng rãi với hai khay chứa đồ cá nhân có kích thước lớn. Điểm xuyết trên đó là những cụm đồng hồ hiển thị tình trạng xe khi vận hành được bố trí đơn giản và tiện dụng. Chiếc xe còn có hệ thống cần gạt nước cho kính lái. Ngoài ra hệ thống chiếu sáng của Piaggio Vespa APE Calessino còn được cải tiến với hai đèn pha có kích thước lớn được đặt theo vị trí như kiểu đèn pha trên ô tô.

Piaggio Vespa APE Calessino được bán ra thị trường với ba phiên bản động cơ: 50 phân khối, 218 phân khối chạy nhiên liệu xăng và đặc biệt là động cơ Diesel 422 phân khối. Cả 3 loại động cơ này đều dùng kiểu hộp số 5 cấp, côn tay. Với phiên bản máy dầu Diesel 422cc, Piaggio Vespa APE Calessino có tổng trọng lượng ở mức 615kg, bình chứa nhiên liệu có thể tích 10,5 lít và tốc độ tối đa có thể đạt được là 56km/h.

Tuy nhiên, dù cho mơ ước có trở nên hiện thực hơn, tất cả những gì mình có thể làm vẫn là “kính nhi viễn chi” vì giá xuất xưởng của Calessino vào khoảng... 28.000 USD.
Nếu có thể gọi tên một giấc mơ, thì với tôi, đó chính là Piaggio Vespa APE Calessino.
Còn gì đẹp bằng một buổi sáng thu vàng rực rỡ như sáng nay, cả nhà chở nhau trên chiếc APE đi ăn sáng rồi lang thang cà phê cà pháo, nhỉ?







