Recent Posts

Thứ Tư, 7 tháng 11, 2012

Tháng Mười Một



Tháng Mười Một, mùa Đông đã trở nên rõ rệt hơn. Tiết trời xầm xì, âm u, thảng hoặc mới có một đợt nắng chợt bừng lên rồi lại tắt. Mới năm giờ chiều mà phố phường đã bắt đầu lên đèn, đi làm về sớm mà cứ tưởng về muộn. Đi bộ trong con ngõ nhỏ, trong tiết trời se lạnh và những hạt mưa bụi đầu mùa nhẹ như tơ trời, thấy lòng cũng nhẹ và đời cũng nhẹ, khôn kham. Và những ô cửa sổ đèn vàng lại toát lên cái vẻ quyến rũ cố hữu, như hãnh diện khoe dáng của một tổ ấm đầy mong ước.

Tháng Mười Một, trời đã không còn trăng với sao, nhìn ra ngoài cửa sổ chỉ thấy một mảng trời mờ xám. Nằm trong nhà nghe cái giọng nằng nặng đặc trưng xứ Ireland của Van Morrison trong nền trống thậm thịch và tiếng bass guitar dậm dật: "Well, it's a marvelous night for a moon dance/ With the stars up above in your eyes/ A fantabulous night to make romance/ Neath the cover of October skies". Thế rồi từ cái "Night to make romance" đấy thế nào lại nhớ đến cụ Compay Segundo, với dáng vẻ lịch lãm, đôi mắt tinh anh và nghịch ngợm, với bao diêm nằm gọn trong lòng bàn tay phải cùng điếu cigar, thứ cigar mà như ông nói "đã hút từ hồi lên năm [tuổi]", ở tuổi chín mươi, tâm sự với Ry Cooder:"As long as blood runs in my body, I'm going to love women." "One night of romance ... Oh, that has no price. No price at all. And I haven't forgotten how. At my 90 years, I have five children. But right now I'm working on the sixth."-:)

Tháng Mười Một, mẹ hai bạn Tít-Tí lại đi công tác vắng, nhà lại chỉ có mấy bố con. Thế là hàng ngày, ngoài công việc và dăm ba cuốn sách, não bộ lại phải loay hoay với những câu hỏi thi thoảng mới phải hỏi một lần, một câu hỏi đơn giản nhưng luôn khó để tìm ra đáp án: tối nay ăn gì?. Buổi tối, trước khi được ngả lưng với một cuốn sách, thế nào cũng phải có tiết mục đọc truyện đêm khuya cho hai ông tướng, và một màn "reading comprehension" thú vị không kém sau đó. Chẳng hạn như hỏi bạn Tí, nếu Tí có một chú cá vàng sẵn sàng giúp đỡ như đã giúp ông lão đánh cá, Tí sẽ ước gì? Câu trả lời của oắt con sáu tuổi sặc mùi tiền bạc: "Tí ước nhà mình sẽ có thật nhiều tiền, xếp đầy từ tầng một lên tầng năm." -:( Hẳn là với một câu trả lời không mất nhiều thời gian suy nghĩ, bạn Tí đã biến bố thành một ông thầy dốt nát và bất lực. 

Tháng Mười Một, lại là một tháng của những mong ước và đợi chờ với các hoạt động âm nhạc. Liên hoan âm nhạc Châu Âu, Luala Concert Thu-Đông,... Và nhớ, nhớ một tối rất xa, một tối cuối thu sương giăng mờ góc phố Lý Thái Tổ-Lê Phụng Hiểu, có hai người dựng xe đạp bên lề đường đứng bên nhau để nghe buổi trình diễn của Liên hoan Nhạc Jazz Châu Âu đầu tiên tại Hà Nội, và ca khúc ấn tượng nhất, lưu giữ trong ký ức lâu nhất, cho đến tận bây giờ, là bản Misty.

Thứ Sáu, 2 tháng 11, 2012

Tháng ngày đã qua

Mấy tháng không cập nhật blogspot, nhân dịp chả biết viết gì gom lại những notes đã post bên FB.

Tháng Mười (19/10/2012) 

Tháng Mười, mùa Thu đã chín hơn, tuy vẫn khó nắm bắt và còn khó hơn nữa để diễn tả thành lời.   

Sáng đưa vợ đi làm sớm, bỗng nảy ra cái ước muốn là hai vợ chồng cứ thế này mà chạy thẳng ra khỏi Hà Nội, đi qua những cây cầu, ra ngoại thành, đi qua Sơn Tây, qua cầu Trung Hà, rồi thẳng tiến qua Phú Thọ, Yên Bái. Ở Yên Bái, cả hai có thể sẽ rẽ qua Mù Căng Chải, hoặc đi thẳng lên Lào Cai. Đi đến khi nào túi hết tiền, hoặc cả hai đã thấy đủ để quay về, thì quay về, tùy thuộc vào việc nào xảy ra trước.   

Tôi biết, đợi chúng tôi ở đó sẽ là một ngã ba sông mờ mịt khói sương buổi sớm; những cánh đồng trơ gốc rạ; một cái cây cổ thụ chơ vơ ven đường; những doi cát nằm lặng yên cho dòng nước mơn man; một người đàn ông đi thuyền nan đánh cá, tiếng mái chèo gõ vào mạn thuyền cứ vang vọng mãi đuổi theo sau xe; một con chó nằm lặng im dưới bộ ván ngựa của một quán nước xiêu vẹo bên đường; và phía bên kia cánh đồng, một vài mái nhà sàn nằm lúp xúp sau những cây cọ.   

Tôi biết, chỉ cần nói ra cái ước muốn ấy, vợ tôi sẽ hưởng ứng tức thì. Tính cách chúng tôi có nhiều điểm tương đồng, mà tương đồng nhất có lẽ là liều lĩnh và ương ngạnh. Chúng tôi đã liều lĩnh yêu nhau và sau chừng đó năm, đều trở nên ương ngạnh không chịu từ bỏ lựa chọn của mình. Chúng tôi có đủ sự liều lĩnh và ương ngạnh để làm việc đó.   

Nhưng tôi cũng biết, thực hiện việc đó ngay lúc này là điều không thể. Chúng tôi giờ đã như cái cây cổ thụ, với bộ rễ lớn, khỏe và chằng chịt ăn sâu vào mảnh đất của những mối quan hệ chưa thể dứt bỏ, những công việc chưa thể hoàn thành, những con thơ chưa thể tự lập; bộ rễ to khỏe đến nỗi nếu có hẳn một trận bão lớn thần kỳ cũng chẳng thể làm bật gốc mà nhấc cái cây bay thẳng lên mặt trăng.   

Vì vậy mà cuối cùng, tôi chỉ còn biết cách đưa vợ thẳng đến chỗ làm, rồi sau một ly cà phê, một điếu thuốc, tôi ngồi gõ những dòng này để post lên FB, cứ như thể tôi đã vừa ra đi và trở về. Trong khoảnh khắc ấy, những ám ảnh từ một bìa đĩa cũ xưa của Pink Floyd lại hiện ra trong tôi: hình ảnh silhouette của một cặp đôi đang nhảy múa giữa cánh đồng, trong ánh hoàng hôn. Chỉ có điều là, những cánh tay và thân thể họ đã bị níu chặt xuống đất bởi những sợi dây./. 

Một tối Thứ Sáu (5/10/2012) 

Đã một tuần trôi qua kể từ khi tôi đọc xong “Lời bộc bạch của một thị dân”, nhưng dư âm của nó vẫn còn đọng lại, dai dẳng và mạnh mẽ, đến nỗi trong suốt mấy ngày qua, giở bất kỳ một cuốn sách nào ra tôi cũng chỉ đọc được vài trang rồi lại gấp sách lại, không thể đọc tiếp. Cảm giác này thật là kỳ lạ và chưa bao giờ xảy ra trong tôi. Cứ như thể tôi vừa ăn xong một bữa ăn hợp khẩu vị, no nê và không thể ăn thêm bất cứ thứ gì, cho dù đó có là sơn hào hải vị đi chăng nữa. Thực tế là tôi đã cất đi hết cuốn này đến cuốn khác, và đã chuyển sang đọc cả “Kỹ thuật pha chế cocktails” mà vẫn bỏ dở giữa chừng.   

Vậy là vào một buổi tối thứ Sáu, một tối bình yên hiếm hoi sau rất nhiều ngày không bình yên, tôi đã buông những cuốn sách, tắt điện thoại, tắt đèn, khui một chai Bombay Sapphire mới, cuốn một điếu thuốc lớn hơn thường lệ, và lặng im nghe lại Getz/Gilberto. Nghe họ hát “Quiet nights and quiet stars”, và ngắm nhìn những cuốn sách lặng im trên giá trong ánh sáng lờ mờ hắt lên từ màn hình máy tính.   

Chỉ tiếc là đêm nay trời Hà Nội không có sao.   

Sự bình yên thật là giản dị, nhưng để có được nó nhiều khi cũng phải trả một cái giá quá đắt. Ít nhất thì đấy cũng là kinh nghiệm của riêng tôi./. 

Tháng Chín (tiếp theo và hết-:) (3/10/2012) 

Tháng Chín bắt đầu bằng việc đọc Haruki Murakami và kết thúc bằng việc đọc Márai Sándor. Một người sống một cuộc sống đẹp và viết về những số phận cô đơn và buồn, người kia sống một cuộc đời buồn và cô đơn để viết về vẻ đẹp của “bốn mùa, trời và đất”. Dù thế nào đi nữa, cả hai quyện lại làm thành một tháng Chín đẹp và buồn cho chính tôi.   

Tháng Chín đẹp. Còn gì đẹp hơn một chiều thu được đi cùng cả nhà xuyên qua những cánh đồng đầy nắng, những đêm trăng nằm ngoài hiên lắng nghe hơi thở của đêm thanh vắng, lắng nghe lòng mình trở về với những hoài niệm ấu thơ, trở về với gia đình, những người họ hàng – những người đang sống và những người đã chết-; được ăn những món ăn mà chỉ về nhà mới có, nghe những câu chuyện mà mình đã thuộc làu làu vì đã được nghe kể đi kể lại hàng trăm lần từ thời còn bé tí; được nằm khểnh ngoài hiên, bắt chân chữ ngũ, - kiểu nằm mà tôi đã vô thức học theo, ông nội tôi, bố tôi và sau này cả con tôi cũng nằm y như thế; về thắp hương lên bàn thờ tổ tiên và lặng im đứng cạnh những nấm mồ, như lời khuyên của một ông thầy tử vi “anh nên quay về với gia đình, đi thăm những ngôi mộ.” Còn gì đẹp hơn những sáng nắng vàng như mật, gió mát lành, được ngồi dưới tán những cây nhãn cổ thụ, uống ly cà phê quen thuộc, hút thứ thuốc lá sợi quen thuộc, thứ thuốc lá đã ra đời trước khi tôi sinh ra đúng một trăm năm, thứ thuốc mà trong cuốn sách cũ xưa đang mở ra trước mặt cũng đề cập tới nhiều lần: “trong không khí lan toả mùi ngòn ngọt, ngột ngạt của thuốc lá Virginia, mùi trả ở ngay đây trên tàu này cũng đã thơm, có thể say vì nó...”.   

Nhưng tháng Chín cũng buồn. Có nỗi buồn nhẹ nhàng như khi nghe tin Andy William, người ca sĩ già lịch lãm được mình yêu mến và nể trọng với những Moon River, Speak Softly Love,... đã vĩnh viễn từ giã cõi đời. Có những nỗi buồn bắt gặp trong những trang sách, trang sách phản chiếu ánh mắt buồn bã của người viết khiến cho bất kỳ thành phố nào, kể cả Paris hoa lệ, cũng trở nên buồn chán. Và trên hết là nỗi buồn khi bắt gặp trong chính cuốn sách đó, những câu chữ như được viết ra để dành cho chính mình: “Từ lâu nay chúng ta cứ tưởng ta biết những khao khát của mình, biết bản chất những khuynh hướng, tình cảm của mình. Trong những khoảnh khắc như thế một tiếng nổ chói tai cảnh tỉnh ta – vì pianissimo của tĩnh lặng cũng chói tai như fortissimo-, rằng ta hoàn toàn sống ở nơi khác với nơi mà ta muốn sống, nghề nghiệp của ta khác với nghề nghiệp mà ta am tường, ta đi tìm ân huệ và kích động sự tức giận của những con người khác, ta sống trong sự xa cách thờ ơ và câm lặng với những con người mà ta thực sự khao khát, những con người mà ta liên quan tới với tất cả hệ lụy... Người nào điếc lác trước sự cảnh tỉnh này, người đó mãi mãi sống một cách vụng về, lóng ngóng bên lề cuộc đời.”   

Tháng Chín đẹp và buồn, như một đêm đã khuya, có một gã trai ngồi dưới ánh trăng bên cửa sổ, lặng im uống rượu gin pha tonic, và nghe Nina Simone hát: “This year’s new romance/doesn’t seem to have a chance/ even helped by Mr. Moon above...”. 

Quê nhà (23/9/2012) 

Lâu rồi cả nhà mới lại có dịp cùng nhau đi xuyên qua những cánh đồng. Nắng chiều dát vàng lên những đồng lúa chín, những cây cầu cong cong sơn trắng, một tháp chuông ở cuối chân trời. Ngay cả những ngôi mộ rải rác trong những ruộng lúa vốn lạnh lẽo, im lìm cũng sáng rực lên, lấp lánh dưới ánh nắng chiều thu. Rặng bạch đàn thẳng tắp, chạy dọc theo con mương trong vắt đang hờ hững chảy, mang theo đàn vịt lơ đễnh trôi theo dòng. Bóng cây đổ dài trên mặt ruộng lúa. Mẹ hai bạn Tít-Tí, như “tức cảnh sinh tình”, bật Fields of Gold. Giọng Eva Cassidy và tiếng ghi ta thùng ngọt như mật: “See the children run/ as the sun goes down/ among the fields of gold”.   

Chiều muộn, mặt trời to, đỏ ối, thấp dần và nấp sau một đám mây lớn, đen và sừng sững như một rặng núi lớn nơi chân trời. Tít liên tưởng thế nào đó nên hỏi: “Bố ơi, núi Thái Sơn ở đâu?”. Bạn Tí nhìn ra hướng khác thì reo ầm lên: “A, trăng lưỡi liềm, trăng lưỡi liềm”. Bạn ấy đang ở thời kỳ rất quan tâm đến các hành tinh trong vũ trụ và chu kỳ của chúng. Mảnh trăng đầu tháng mỏng như lá lúa, lơ lửng trên đầu ba bố con, lặng lẽ nhen nhóm thứ ánh sáng thanh khiết, nhẹ nhàng xua dần những ráng chiều đang đỏ ối, rực lên sau đám mây trước khi tắt hẳn.   

Buổi tối, cây cối trong vườn cụp rụp đi ngủ cả. Tiếng côn trùng rả rích, tiếng ếch nhái ộp oạp lan dần trên mặt cánh đồng đã mờ đi trong lớp sương thu mỏng tang, trắng mờ dưới ánh trăng, nghe như vẳng đâu tiếng nhạc dạo, rồi Hà Trần cất tiếng “Đường im vắng mùa thu trắng/Gió heo may về bên lá khô/Mù sương trắng cà phê đắng/Ấm đôi tay người xa tháng ngày...”. Các bạn Tít-Tí đã đi ngủ cả, chuyện trò cũng đã vãn, mảnh trăng đã xuống rất thấp, lấp ló sau mấy cây hoè. Tôi nằm khểnh ngoài hiên, và đọc Solzhenitsyn: “Giá như được sống trọn kiếp ở đây... Ở đây tâm hồn, tựa làn không khí đang run rẩy, dường như lai láng giữa trời và nước, những suy tư sâu lắng và thanh khiết dường như muốn tuôn trào.” 

Tháng Chín (16/9/2012) 

Tháng Chín mở đầu bằng ngày khai giảng năm học mới của hai bạn Tít –Tí. Sáng hôm đó cả nhà dậy sớm. Hai bạn mặc đồng phục, áo trắng, quần xanh, đứng trước cái giá sách để bố chụp một kiểu ảnh kỷ niệm. Nhìn hai bạn trong bộ đồng phục đứng nghiêm, mắt nhìn thẳng trước ống kính, tôi như nhìn thấy chính mình trong đó, ở một năm đã rất xa, cũng áo cộc tay trắng, quần xanh, đứng nghiêm, hai tay thu lại trước bụng để giữ lấy một cái máy ảnh đồ chơi treo quàng qua cổ. Chỉ khác ở chỗ, làm nền cho bức ảnh của tôi là phong cảnh Biển Hồ Pleiku, nơi bố tôi công tác “chuyển ngành” sau khi hoà bình lập lại.   

Tháng Chín, mẹ hai bạn Tít Tí công tác vắng nhà vài ngày, nhà chỉ có ba bố con. Những đêm muộn, khi hai bạn đã ngủ say, trước khi cầm lấy cuốn sách và ngả lưng xuống cái ghế dài, hình ảnh choán hết chỗ trong đầu tôi là bố. Tôi nhớ bố tôi ở những đêm cũng đã rất xa, một mình chăm sóc hai anh em tôi, nhưng trong một hoàn cảnh khắc nghiệt hơn rất nhiều: đơn côi, không tiền, không nghề nghiệp, người bạn đời thân nhất đã ra đi và không thể mong ngóng trở về. Không biết trong những đêm dài thao thức ấy, ông đã nghĩ gì? Những lúc như thế tôi chỉ muốn được cùng hai bạn Tít Tí về nhà ở với ông ít ngày.   

Tháng Chín, tôi dành thời gian đọc Murakami. Tôi đọc lại Biên niên ký chim vặn dây cót, Phía Nam biên giới phía Tây mặt trời, Cuộc săn cừu hoang, Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới,... Tôi đọc hai tập truyện ngắn mới kiếm được là Sau cơn động đất và Đom Đóm. Và sau khi đọc xong Đom Đóm, tôi đã quyết định mua và đọc Rừng Nauy, cuốn tiểu thuyết mà tôi đã nấn ná “không mua-không đọc” trong một khoảng thời gian rất dài. Và chỉ một ngày sau khi đọc xong Rừng Nauy thì 1Q84 được phát hành, và thế là tôi đọc nốt Quyển 1 của tiểu thuyết này, để rồi lại mong ngóng hai quyển tiếp theo. Tôi tìm thấy ở truyện của Murakami tình yêu với âm nhạc, sách, rượu gin, những ám ảnh dục tình và đặc biệt là những tâm hồn bị tổn thương và cô đơn trong một thế giới ngày một đông đúc và hỗn loạn. Và khi nghĩ đến sự cô đơn, tôi lại nhớ về The Beatles với bản Eleanor Rigby, trên cái nền sầu thảm của dàn nhạc dây, Paul McCartney với đôi mắt buồn cố hữu của ông đã cất lời đặt một câu hỏi cũng buồn không kém: “All the lonely people, where do they all belong?”.   

Tháng Chín, Hà Nội đã đón đợt gió mùa đầu tiên. Trời đẹp và quyến rũ đến mức ai cũng phải tự nhủ: “Trời đẹp thế này mà không đi cà phê thì phí quá”. Tháng Chín, những giọt nắng xiên qua kẽ lá nhảy nhót trên những trang sách in rất đẹp trên giấy ngà. Thời tiết tháng Chín làm gợi nhớ đến Thạch Lam, đến hình ảnh của chính tôi một ngày cũng đã rất xa, ngồi khoanh chân trên một cái chiếu trải giữa nhà, hai bàn tay đặt trên nắp ấm giành nước chè để tìm chút hơi ấm.   

Tháng Chín đã đến và sắp đi qua, một tháng Chín “đẹp và buồn”, như chính tên gọi một câu chuyện của Kawabata vậy.  

Tháng Tám (14/8/2012) 

Tháng Tám trôi qua bằng những cơn mưa lớn và dài, những cơn mưa như sinh ra để gột sạch những bụi bặm, khổ đau, nóng lực và bực bội. Giữa những cơn mưa là khoảng không cho nắng vàng nhen nhóm, cho những cơn gió và sương thu len lỏi dần trên những ngõ phố. Lòng người cũng vì thế mà dịu đi đôi chút, cho dù, mùa bão mới chỉ vừa bắt đầu.   

Tháng Tám lặng lẽ trôi qua, bằng những giờ nghe lại những thứ lâu lắm mới nghe. Những Norah Jones trễ nải trong đêm khuya như cứ muốn mời gọi, rủ rê ai đó “come away with me in the night”; những ngón piano thổn thức, giày vò nhưng đầy hy vọng của Nina Simone “troubles in mind I’m blue”, và lẫn trong tiếng mưa rơi rả rích là giọng của bà “for the sun gonna shine in my back door someday.”   

Tháng Tám trôi qua bằng những tối ở nhà, sau một vài chai bia, nằm dài trên ghế, lần giở lại một vài trang Márai Sándor viết về tháng Tám, và đọc được những dòng này:  “Những tấn kịch lớn, quyết định vận mệnh của cuộc đời thường bắt đầu một cách âm thầm, đến nỗi khi đã ngập trong tấn kịch ấy đến cổ mà ta vẫn chưa hiểu. Bệnh ung thư, nỗi nhục nhã, sự thất bại hay thất vọng lớn không bắt đầu như trong văn chương: một hôm ta phát hiện ra cái mụn, hay một ai đó gọi điện thoại và nói vào máy với giọng thật khác lạ, mà ta không thật hiểu những gì họ nói, hay người phụ nữ mà ta yêu bỗng thờ ơ quay mặt đi. Nó bắt đầu như vậy. Không. Những lúc ấy nó đã diễn ra. Định mệnh thường lặng lẽ. Chỉ có tai hoạ là kêu gào ầm ĩ và rung chuông leng keng.”   

Thế rồi trong cái lơ mơ của men bia, đặt cuốn sách lên bụng và ta chợt thiếp đi một giấc ngắn. Tỉnh dậy thì trời vẫn đang mưa, ta ngồi dậy gõ vài chữ lên FB, trong lúc đó, Nina Simone và ban nhạc của bà đang chơi đoạn cao trào của bài Sinnerman: tiếng bass solo, tiếng vỗ tay hoà nhịp, rồi piano nổi lên, trống dồn đập, giọng Nina ngân dài, rồi tất cả bỗng ngưng bặt, piano buông một tiếng nữa, rồi lại là giọng Nina, rồi cả pinano và trống như nhập đồng để kết thúc một khúc ca dài, bi tráng và đầy khổ đau. 

Bình minh (15/7/2012) 

1. "Bình minh tháng Năm trong rừng, đẹp thần tiên hơn mọi trang sách đã đọc. Những người thấy bình minh bao giờ cũng là những người có sức hành động và hành động chính đáng, có những việc sắp làm, những dự kiến đang muốn thực hiện. Họ thức sớm, đợi chờ. Còn những kẻ nhàn nhã và bất lương thì bao giờ cũng dậy muộn và không bao giờ, có thể là suốt đời, không biết tới một bình minh thực sự. Có chăng, với họ, chỉ nhìn thấy cái ráng hồng hoàng hôn, nó gợi những tiếc nuối xa xăm không thể níu giữ và những nỗi hoài niệm cháy lòng khi chờ bóng đêm tới để làm những hành động không dám làm dưới ánh mặt trời." 

Ngô Thảo/ Dĩ vãng phía trước 

2. "Trong chốc lát, dàn hợp xướng tiếng chim đã lên đến đỉnh cao. Chúng tôi đứng lặng, lắng nghe những âm thanh sôi nổi, như bị thôi miên bởi những tiếng hót rộn ràng cùng với ánh bình minh đang lên. Một tia nắng vàng xuyên qua tầng lá dày đặc trên mái rừng và những tiếng ríu rít, líu lo cũng dịu dần xuống. Tôi băn khoăn không hiểu tại sao những người khác có thể ngủ được trong ngày hội của những âm thanh và màu sắc đang chờ đón họ mỗi khi họ đi vào rừng vào lúc sáng sớm tinh khôi."

Elizabeth Kemf/ Tiết Thanh minh. 

3. Thèm được đi Cúc Phương và ngủ trong rừng quá. 

Ngựa sắt/ Nhân một sáng Chủ nhật dậy sớm.-:) 

Những não bộ khô cằn cần được thiên thần rượu chắp cánh (10/7/2012) 

Cuối cùng thì, sau bao nhiêu áp lực đã trải qua, bao nhiêu cuộc nhậu đã từng, bị ép buộc có, tự nguyện có, say cũng có mà chưa say đã về cũng có; sau bao nhiêu lần dạo phố Đinh Lễ, và sau bao nhiêu cuốn sách đã đọc, bao nhiêu những ngày nắng, những ngày mưa, những buổi chiều uống bia trên phố Tạ Hiện, tôi đã gặp được Nó, cuốn sách ấy, trong một ngày có rất nhiều áp lực, có sáng nắng chiều mưa; bắt gặp nó trên vỉa hè Đinh Lễ, và đọc nó trên vỉa hè Tạ Hiện. Nó, với cái vốn hiểu biết ít ỏi của tôi, tôi chưa từng biết có Nó trên đời để mà tìm kiếm, để mà mơ ước tới. Chỉ là một gặp gỡ tình cờ mà tôi đã gặp, và cơ duyên đã biến nó thành một cuốn sách đặc biệt trong cái sự đọc của tôi: một cuốn sách được đọc gần như ngay sau khi mua, vì, thông thường, tôi thường đọc một cuốn sách mới mua sau khi đã đi một quãng đường dài về nhà, chơi bời và cáu gắt với con cái, tắm rửa, ăn cơm tối, có thể ngó qua cái TV, và sau khi đã lướt FB và web chán chê, và con cái đã ngủ hết, mọi lo toan đã được gửi lên những đám mây điện toán, tôi mới bật cái đèn đọc thân thuộc lên, và đọc. Đấy là chưa kể có những cuốn sách được mua về và để lên giá sách mà rất lâu sau mới được tôi giở ra một lần nữa, sau lần đầu giở ra lật lật vài trang đọc thử lúc ở hiệu sách, để đọc, trong một bối cảnh hoặc tâm trạng phù hợp cũng rất tình cờ nào đó. Những lúc đó, nói thế nào nhỉ, à, những lúc đó tôi như một ông vua, còn những cuốn sách giống như những tì thiếp bỗng nhiên được ông vua ngó tới sau bao ngày được "tiến cung", bao ngày mong ngóng đợi chờ. -:) Lần này thì khác hẳn. Nó được đọc chỉ vài phút sau khi mua: một đoạn di chuyển ngắn từ Đinh Lễ ra Tạ Hiện. Cuốn sách tiếp tục sống cái cuộc sống vỉa hè của nó. Và ở đó, vứt bỏ mọi áp lực đang bủa vây, mặc kệ cái nắng xiên gay gắt cuối chiều, cái nắng oi bức xuyên qua những đám mây báo hiệu một cơn mưa sắp tới, với tấm lưng thấm đẫm mồ hôi dựa vào một bức tường phố cổ, bên cạnh một chai bia lạnh, tôi đọc nó, một tiểu thuyết, một tự truyện hay như sau đó tôi nhận ra, một tiểu luận cực kỳ lôi cuốn về chứng nghiện rượu và cái thế giới của những người nghiện rượu, một thứ rất hay ho về một chủ đề rất hay ho mà tôi chưa từng gặp trước đó. Tôi đọc nó song hành với từng ngụm bia nhỏ, và cả hai dần dần kích thích trí não tôi, đẩy tôi tới một cơn hứng khởi nào đó, đến mức tôi gần như quên mất việc phải cuốn một điếu thuốc để hút như thường lệ, mỗi khi uống một chất kích thích nào đó. Có lẽ cuốn sách là một chất kích thích quá đủ để không cần có thêm một chất kích thích nào nữa, ngoài rượu bia, cái thứ là chủ đề chính của nó. Và vào lúc viết những dòng này, tôi nghĩ rằng sẽ thật là đáng tiếc, nếu như tôi đọc nó vào một lúc quá tỉnh táo, quá lý trí. Một chút, một chút rượu bia thôi đã đẩy trí não tôi tới một trạng thái bị kích thích, một niềm hứng khởi hân hoan để đón nhận những dòng chữ, những ý tưởng hân hoan không kém về một thứ đồ uống luôn làm con người ta hân hoan cũng không kém: rượu. Trong lúc đọc những chương đầu tiên của nó, tôi liên tưởng tới hai thứ: một là bộ phim Bay trên tổ chim cúc cu, một bộ phim gây ấn tượng với tôi không kém gì cuốn sách này, với cùng một bối cảnh trong một nhà thương điên, và hai là, những đêm muộn ngồi ở Bình Minh Jazz Club, sau vài ly Gin&Tonic quen thuộc, liêng biêng nghe ban nhạc chơi những bản nhạc theo "request" của riêng mình như Take Five hay Misty.

Tôi những muốn trích dẫn những câu, những chữ, những gì mà tác giả của nó, mới chỉ vài tiếng đồng hồ trước thôi, còn là một cái tên rất xa lạ với tôi, Jerzy Pilch, muốn chuyển tải; nhưng càng đọc tôi càng thấy việc đó là bất khả, vì việc khả dĩ nhất là trích dẫn lại toàn bộ cuốn sách. Vì vậy, trong cái liêng biêng sau chai bia thứ ba, tôi thấy tốt nhất là nên để các bạn tự đọc và tự trích dẫn, tự cảm nhận Nó trong "chiếc gương soi" là những cơn say của chính mình. Nó là cuốn "Dưới cánh những thiên thần rượu", Lê Bá Thự dịch và Phương Nam Book ấn hành, Quý II/2012.

Những ám ảnh Vịt (22/6/2012)

1. Tết Đoan Ngọ, ở quê tôi ngoài tục "giết sâu bọ" bằng hoa quả, ăn cái rượu, tắm nước phù sa, kiêng ngồi ở bậu cửa,... thì còn có tục ăn thịt vịt. Vịt đồng vào độ này đang được coi là béo nhất vì vừa qua mùa gặt. Mùng năm tháng Năm ở chợ quê, ngoài cái ồn ã hàng ngày, còn có cái náo nhiệt của lũ vịt, và cái náo nức của các bà nội trợ cho bữa thịt vịt sắp đến. Ngoài đường, vịt lủng lẳng ở ghi-đông xe đạp, hoặc ngó nghiêng cái cổ dài ra ngoài cái làn nhựa, hoặc ngúng nguẩy trên miệng thúng mà kêu càm cạp, quàng quạc khắp các nẻo đường. Trẻ con thì rất hể hả vì ngoài việc được chén thịt vịt thì thế nào cũng sẽ có một hai bộ lông vịt rải đều trong cái rổ cho mau khô để đổi kẹo kéo. Và trong câu chuyện giữa mọi người, có thêm những vịt nhà nào béo, nhà nào gầy, vịt nào to vịt nào bé, ăn một con hay ăn "dững" hai con, v.v... Nghĩ lại thì mới thấy cái sự so bì ở mình nó đã ăn vào máu, cái gì cũng nhòm ngó vào nhà nhau được.

2. Thịt vịt ở quê cũng chỉ làm vài món rất cơ bản: luộc, đầu cánh xáo măng, lòng mề xào giá đỗ và mướp hương, chứ không có món nướng hay om sấu như các vùng khác. Ngoài ra, có thêm tiết canh, và đây là món tôi thích nhất trong các món vịt. Trong các loại tiết canh thì tôi cũng thích nhất là tiết canh vịt. Nghe thì có vẻ không được vệ sinh và văn minh cho lắm (mà văn minh theo tiêu chuẩn nào nhỉ, nếu đem đặt tiết canh vào văn minh lúa nước thì nó quá hợp tiêu chuẩn ấy chứ,-:), nhưng cái thằng nông dân trong tôi, cho đến giờ, vẫn sẵn sàng đổi cái văn minh chết tiệt ấy chỉ để lấy một đĩa tiết canh vịt. Nói vậy thôi chứ cũng rất lâu rồi, không còn nhớ lần cuối cùng là khi nào nữa, tôi không ăn tiết canh vịt, vì không thấy có chỗ nào làm ngon. Với tôi, tiết canh vịt ngon nhất là do mẹ tôi làm. Tiết canh bà làm bao giờ cũng đông chặt, đỏ tươi, trang điểm bằng màu vàng của lạc rang giã nhỏ, màu trắng của sụn băm nhỏ, sau khi vắt chanh ăn kèm húng, mùi tàu và đặc biệt là săng cay hái ở vườn sau nhà. Khi ăn một miếng thì đủ cả vị ngọt, béo, bùi, chua, cay, ăn đến đâu thấy mát đến đó, cái cảm giác còn mãi trong tôi đến tận bây giờ. Sau này tôi nghe đồn nhà thơ Nguyễn Duy có biệt tài đánh tiết canh vịt, ngon đến "nhức răng", và miếng tiết canh có thể xâu vào lạt tre mà xách lên được. Tôi chưa có cái vinh hạnh được thưởng thức tài nghệ của ông, nhưng có lẽ cũng chỉ ngon như tiết canh mẹ làm là cùng.-:)

3. Có năm khó khăn, nhà tôi không có vịt để ăn vào ngày Đoan Ngọ. Có một lần, nhà chỉ còn ba bố con, bố tôi nấu một nồi cơm rồi đổ ra xào cơm nóng với mỡ hành. Và trong bữa cơm, chỉ có độc chảo cơm ấy đặt ở giữa mâm. Bao nhiêu mùa vịt đã qua đi, bao nhiêu Tết Đoan Ngọ đã trải, nhưng đấy vẫn là cái Tết Đoan Ngọ mà tôi nhớ nhất.

4. Ngày mới ra trường đi làm, tôi trọ ở một căn gác trong một ngõ nhỏ đầu phố Lò Đúc, nhìn sang bên kia là phố Trần Xuân Soạn. Trên phố này có một hàng cháo vịt rất ngon. Điểm đặc biệt là quán này luôn luôn đóng cửa vào bốn ngày đầu tháng, chỉ mở cửa từ mùng năm âm lịch. Tôi đã trải qua tương đối nhiều bữa khuya ở quán này, và đấy cũng là thời kỳ tôi ăn cháo vịt nhiều nhất và duy nhất. Sau này chuyển đi nơi khác, tôi cũng không còn ăn cháo vịt ở bất kỳ chỗ nào nữa. Quán đấy sau này hình như cũng không còn. Kể ra thì chẳng có gì, nhưng cái quán cháo vịt ấy luôn nằm trong danh sách "những quán hàng đã mờ mịt xa" trong cái đầu thích ăn uống của tôi.

5. Hồi mới xuất ngũ, bố tôi về quê và làm được cái nhà. Dù chỉ là một cái nhà tre, lợp lá gồi, ông cũng mua về một bức tranh Đông Hồ để treo lên. Tôi không hiểu tại sao giữa rất nhiều đề tài tranh Đông Hồ, ông lại chọn bức bé gái ôm con vịt để mang về treo trên tường nhà mình. Một sự lựa chọn ngẫu nhiên, do gợi ý của người bán tranh, hay ông có dụng ý gì thì tôi không biết, nhưng bức tranh ấy thì vẫn ám ảnh tôi mãi đến bây giờ. Đến mức, tôi vẫn luôn mong có một ngày được đưa hai bạn Tít & Tí về làng tranh Đông Hồ, giới thiệu cho các bạn ấy kỹ thuật làm tranh, rồi mua đúng bức tranh bé gái ôm con vịt ấy để mang về treo trong phòng của hai bạn.

P/S. Cảm hứng để viết những dòng này là từ nồi vịt om sấu rất ngon bà xã mới làm mấy hôm trước. Hà Nội đang vào mùa sấu, còn vịt thì bây giờ có quanh năm chứ cũng chẳng phải đợi đến Tết Đoan Ngọ./.